- Hoàn cảnh ra đời
Dưới thời vua Minh Mạng, bà Huyện Thanh Quan được mời vào kinh đô Huế giữ chức Cung Trung giáo tập để dạy học cho công chúa và cung phi. Trên đường di chuyển từ Bắc Hà vào Huế, bà có dừng chân nghỉ ngơi tại Đèo Ngang - đây là lần đầu tiên bà đến nơi này. Đứng trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của Đèo Ngang, bà tức cảnh sinh tình mà sáng tác nên bài thơ Qua đèo ngang.
2. Ngôn ngữ
Bài thơ Qua Đèo Ngang được viết bằng chữ Nôm
3. Thể thơ
- Bài thơ Qua Đèo Ngang được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật.
- Đặc điểm thể thơ thất ngôn bát cú đường luật:
- Gồm có 8 câu thơ, mỗi câu thơ có 7 chữ
- Thường triển khai nội dung theo bố cục đề - thực - luận - kết
4. Phương thức biểu đạt
- PTBĐ tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm
5. Bố cục bài thơ Qua Đèo Ngang
- Gồm 4 phần:
STT |
Giới hạn |
Nội dung |
Phần đề |
Câu thơ 1 và 2 |
|
Phần thực |
Câu thơ 3 và 4 |
|
Phần luận |
Câu thơ 5 và 6 |
|
Phần kết |
Câu thơ 7 và 8 |
|
6. Giá trị nội dung
bài thơ “Qua Đèo Ngang” cho thấy cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn hoang sơ, đồng thời, thể hiện nỗi nhớ nước, thương nhà, nỗi buồn thầm lặng, cô đơn của tác giả
7. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
- Sử dụng từ láy gợi hình gợi cảm và nghệ thuật đối lập, đảo ngữ
NHÂN VẬT
- Nhân vật trữ tình : “ta” – tác giả
- Diễn biến tâm trạng:
* Cô đơn, lạc lõng:
- Lòng người man mác trước cảnh núi heo quạnh:
- Câu thơ xuất hiện cụm từ “bóng xế tà” và sự hiện diện của điệp từ “chen” cùng cách gieo vần lưng “lá”, “đá” đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch.
- Điệp từ "chen" khẳng định sức sống mạnh mẽ của cỏ, cây, bấu víu để sinh sôi nảy nở.
+Từ “tà” như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất.
+Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã.
- Hoàng hôn xuống, cái bóng tối bao phủ lấy nơi này nỗi buồn, cô đơn, lạc lõng càng bám riết hơn làm lòng người cảm thấy hiu quạnh đến não lòng, thể hiện một nỗi buồn xa vắng, nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai.
- Sự xuất hiện của con người trái lại càng khiến cảnh vật thêm phần heo hút, hoang vắng hơn:
+ Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh vào dáng “lom khom” của những chú tiều, cái “lác đác” của mấy ngôi nhà ven sông kết hợp các từ chỉ số lượng ít ỏi “vài”, “mấy” khiến cho hình bóng con người đã nhỏ lại càng nhỏ hơn, cuộc sống đã hiu quạnh lại càng hiu quạnh hơn.
- Bức tranh về một thế giới cô liêu hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Sự sống nơi đèo Ngang mong manh, hiu quanh và hoang sơ. Hình ảnh nơi đây như đã nhuộm nỗi buồn của người thi sĩ, sự sống nơi đây thật lẻ loi muốn tìm người bạn tâm sự mà cũng chẳng có.
* Nỗi nhớ nước, nhớ nhà; sự hồi tưởng về thời kì huy hoàng cũ:
- Những âm thanh của cuốc kêu cũng chính là nỗi lòng của Bà Huyện Thanh Quan.
- Chữ vừa ghi âm thanh nhưng đồng thời còn bộc lộ tâm trạng, ý tứ của tác giả, qua đó làm nổi bật tâm trạng, nỗi niềm của nữ sĩ.
- Còn “nhớ nước” tức là bà đang nhớ về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ. Hai chữ nhớ nước, thương nhà được tác giả đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh và làm nổi bật nỗi niềm của bà.
- Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn.
- Nỗi buồn lớn lao, thấm thía như kết thành hình, thành khối, thành mảnh tình riêng khiến nhà thơ phải thốt lên chua xót: ta với ta. Chỉ có ta hiểu lòng ta mà thôi!
=> Sự cô đơn càng tăng lên gấp bội.