a. Hoàn cảnh sáng tác
Văn bản “Con chó Bấc” trích tiểu thuyết “Tiếng gọi nơi hoang dã“ (1903).
b. Bố cục
3 phần:
- Phần 1 (Từ đầu đến... trong lòng Bấc”): Cuộc sống của Bấc.
- Phần 2 Tiếp theo đến “biết nói đấy”): Tình cảm của Thoóc-tơn đối với con chó Bấc.
- Phần 3 (còn lại): Tình cảm của Bấc đối với chủ.
Trong ba phần thì phần thứ ba dài hơn cả. Điều đó cho thấy nhà văn chủ chủ yếu muốn nói đến những biểu hiện tình cảm của Bấc và miêu tả tình cảm của nó đối với chủ.
c. Phương thức biểu đạt
Tự sự, miêu tả.
d. Giá trị nội dung
Đoạn trích bộ lộ những nhận xét tinh tế của tác giả về con chó Bấc đồng thời thể hiện tình cảm của tác giả đối với loài vật.
e. Giá trị nghệ thuật
- Kết hợp tự sự miêu tả bằng quan sát, nhận xét và trí tưởng tượng tuyệt vời của tác giả.
- Không sử dụng nhân hóa một cách triệt để.
- Chỉ qua lời kể chuyện đã bộc lộ "tâm hồn" của con chó Bấc.
- Nhà văn đứng ngoài quan sát và miêu tả chứ không đóng vai nhân vật.
Nhân vật Con chó Bấc
- Cuộc sống của Bấc
- Trước khi gặp Thooc-tơn:
+ Nơi ở: nhà thẩm phán Mi-lơ.
+ Nhiệm vụ: đi săn, đi chơi, bảo vệ.
+ Tình cảm: làm ăn cùng hội cùng phường, đối với ông thẩm phán chỉ là tình bạn trịnh trọng đường hoàng, với những đứa cháu nhỏ của thẩm phán, chỉ có trách nhiệm ra oai, hộ vệ. Đó là tình cảm mờ nhạt không sâu sắc.
- Sau khi gặp Thooc- tơn:
+ Bấc nhận được tình yêu thương thực sự nồng nàn.
+ Bấc cũng có một tình yêu thương sôi nổi, thương yêu tôn thờ, cuồng nhiệt với trạng thái cảm xúc mãnh liệt, tràn đầy không gì kìm hãm nổi, xen lẫn sự quý trọng, cảm phục người mình yêu thương. Đó là một cuộc sống có ý nghĩa.
+ Bấc là một con vật khao khát và quý trọng tình yêu thương.
2. Tình cảm đặc biệt của Bấc đối với Thoóc-tơn:
+ Từ khi gặp Thoóc-tơn, ở Bấc nảy sinh những tình cảm mới mà trước kia nó chưa hề cảm thấy, đó là “tình yêu thương sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt”.
+ Tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn có những biểu hiện thật đặc biệt: khác với Xơ-kít, Ních, “Bấc có cái tài biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta. Nó thường hay há miệng ra cắn lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu”.
+ Tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn là tình cảm mang tính chất tôn thờ, ngưỡng mộ: “Nó thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hằng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt…. đôi mắt anh toả rạng tình cảm tự đáy lòng, trong khi tình cảm của Bấc ngời ánh lên qua đôi mắt nó”.
+ Tình cảm của Bấc với Thoóc-tơn ngoài sự tôn thờ còn là lòng biết ơn bởi Thoóc-tơn đã cứu sống nó, đã tái sinh nó. “Nó sợ Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời nó”, bởi thế, nó thường thức giấc đột ngột trong đêm, “trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ”.
=> Bằng nghệ thuật nhân hóa, tác giả đã thể hiện một cách cảm động tình cảm của chú chó Bấc đối với người chủ tốt bụng của mình. Qua đoạn trích, nhà văn muốn truyền tải một thông điệp: loài vật cũng có những tình cảm, cảm xúc đáng được tôn trọng.
3. Tình cảm của Thooc-tơn với Bấc:
+ Thoóc-tơn đã cứu sống Bấc và là một ông chủ lí tưởng: Các ông chủ khác chăm sóc chó vì nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh, còn Thoóc-tơn đối xử với những con chó của anh “như thể chúng là con cái của anh vậy”. Trong ý nghĩ, tình cảm và cách đối xử, Thoóc-tơn coi Bấc như một đồng loại, một người bạn.
+ Các biểu hiện tình cảm đặc biệt của Thoóc-tơn với Bấc: chào hỏi thân mật hoặc nói lời vui vẻ, trò chuyện tầm phào; những cử chỉ thân mật, âu yếm như túm chặt lấy đầu Bấc dựa vào đầu mình rồi đẩy tới đẩy lui, những tiếng rủa của Thoóc-tơn là những lời nói nựng âu yếm. Trước những cử chỉ của Bấc đáp lại tình cảm của ông chủ (miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời), Thoóc-tơn đã thốt lên đầy thán phục và yêu mến: “Trời đất! Đẳng ấy hầu như biết nói đấy”.